Change background image
A15 NCT's School 2009 - 2012

Ngôi nhà của kỷ niệm


Go downThông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

© FMvi.vn

Fri May 24, 2019 7:20 pm

oanhoanh2211
oanhoanh2211
oanhoanh2211

Member

37,5% giảng viên chưa có công bố quốc tế ISI/Scopus
Số lượng các công bố quốc tế của các nhóm nghiên cứu trong các trường đại học còn khá khiêm tốn. Trong đó có 37,5% giảng viên chưa có công bố quốc tế ISI/Scopus. Số các giảng viên có công bố quốc tế ISI/Scopus trên 5 bài chỉ có 34,2%. Con số này nói lên mức độ hội nhập với trình độ quốc tế của các nhà khoa học Việt Nam.
Đó là một trong những kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu thực hiện Đề tài mã số KHGD/16-20.ĐT.032 thuộc Chương trình Khoa học và Công nghệ cấp Quốc gia giai đoạn 2016-2020: “Nghiên cứu phát triển khoa học giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam” đã thực hiện khảo sát ở hơn 40 trường đại học trong cả nước.

Nhóm nghiên cứu do GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Đại học Quốc gia Hà Nội làm trưởng nhóm.

58,8% giảng viên tham gia nhóm nghiên cứu

Theo kết quả khảo sát của nhóm thực hiện đề tài với 216 giảng viên với

Chính sách về nhóm nghiên cứu (NNC)

Tại Quyết định 2395/QĐ-TTg ngày 25/12/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đào tạo nhân lực khoa học công nghệ trong nước và nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước trong đó một trong những mục tiêu là hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng 50 NNC (giai đoạn 2016-2020) và 80 NNC (giai đoạn 2021-2015) nhằm hình thành các NNCM đủ sức giải quyết những vấn đề KH&CN lớn của đất nước.

thành phần trong đó TS: 42,1%, TSKH: 2,3%, PGS: 9,7% và GS: 4,6% ở 40 trường đại học, viện nghiên cứu trên địa bàn cả nước, với tỷ lệ 69% là nam, kết quả cho thấy có 58,8% (127/216) khẳng định đang tham gia các nhóm nghiên cứu (NNC).

Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo thống kê, tính đến năm học 2016-2017 đã có 491 nhóm giảng dạy - nghiên cứu được thành lập tại các cơ sở đào tạo, trong đó cơ sở đào tạo có nhiều nhóm giảng dạy - nghiên cứu nhất là: Trường Đại học Bách khoa Hà Nội (127 nhóm), tiếp đến là các trường: Đại học Tây Nguyên (42 nhóm), Đại học Đà Nẵng (36 nhóm), Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên (30 nhóm), Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh (24 nhóm), Đại học Quốc gia Hà Nội (29 NNC mạnh). Trên cơ sở khảo sát từ 142/271 trường đại học, hiện nay trong hệ thống các trường đại học đã hình thành 945 NNC, một trường đại học có trung bình 7 NNC.

Các kết quả khảo sát cũng ghi nhận trong số ý kiến của 216 giảng viên, có 29,1% là các trưởng NNC, cho biết đã tham gia 64 NNC mới được thành lập trong vòng 5 năm từ 2013 trở lại đây.

Số NNC tăng mạnh trong năm 2017 với 17/64 nhóm. Điều này có thể lý giải bởi áp lực của yêu cầu về công bố quốc tế với độ ngũ giảng viên và NCS.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho hay, quy chế đào tạo tiến sỹ năm 2017 mới ban hành yêu cầu giảng viên hướng dẫn và NCS đều phải có công bố quốc tế là nguyên nhân quan trọng thúc đẩy sự hình thành các NNC mới trong những năm gần đây.

Thông qua NNC, chất lượng đào tạo tiến sỹ và chất lượng đội ngũ đã tăng lên từng bước. Các kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu, 77,78% các giảng viên tham gia các NNC đã có các công bố trên các tạp chí ISI/Scopus trong khi con số này đối với các giảng viên không thuộc các NNC chỉ là 48,31%,

23,02% giảng viên tham gia các NNC có các sản phẩm đạt giải thưởng KH&CN, 44,44% có sản phẩm KH&CN hoàn chỉnh, có thể chuyển giao công nghệ và thương mại hóa. Đây là tỷ lệ khá cao nếu so với các giảng viên không tham gia các NNC (13,48% và 30,34%).
37,5% giảng viên chưa có công bố quốc tế ISI/Scopus Nhom-nghien-cuudocx-1556507535771
Biểu đồ so sánh một số tiêu chí giữa các giảng viên tham gia/không tham gia NNC.
Năm 2013, tổng công bố quốc tế của cả Việt Nam hết sức khiêm tốn, chỉ ở mức 2309 bài. Tuy nhiên, theo thống kê mới đây nhất của nhóm NC độc lập của ĐH Duy Tân, tính từ 2017 đến thời điểm công bố vào tháng 6/2018, chỉ riêng các công bố quốc tế của 30 trường đại học Việt Nam hàng đầu trong danh sách này đã đạt 10.515 bài, và hơn cả giai đoạn 5 năm trước đó 2011-2015, khi đó toàn Việt Nam, trong 5 năm mới có 10.034 bài.

Nếu chỉ tính riêng các công bố quốc tế thuộc Scopus, trong vòng 10 năm trở lại đây (2009-2018), số lượng các công bố quốc tế của Việt Nam đã tăng gần 5 lần, từ 1.764 bài năm 2009 đã tăng lên đến 8.234 bài năm 2018. Có thể nhận thấy, sự gia tăng của các nhóm nghiên cứu trong các trường đại học tỷ lệ thuận với sự gia tăng số lượng công bố quốc tế.
37,5% giảng viên chưa có công bố quốc tế ISI/Scopus Screen-shot-20190429-at-101351-am-1556507651831
Tốc độ tăng công bố Scopus của Việt Nam giai đoạn 2009-2018. (Nguồn: Cơ sở dữ liệu Scopus, truy cập ngày 7/1/2019)

Các thống kê từ nguồn dữ liệu của ISI và Scopus cho thấy một số trường đại học như: ĐHQG Hà Nội, ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh, Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học Duy Tân … là những đơn vị đào tạo – nghiên cứu có số lượng công bố quốc tế và tổng số trích dẫn của các bài báo quốc tế đứng top đầu tại Việt Nam.

Cũng theo kết quả khảo sát cho thấy, lĩnh vực nghiên cứu của các NNC cũng không đồng đều và có sự chênh lệch khá lớn tập trung nhiều nhất vào 3 lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn.
37,5% giảng viên chưa có công bố quốc tế ISI/Scopus Nhom-nghien-cuudocx-1556507535892
Biểu đồ phân bố lĩnh vực nghiên cứu của các NNC.

Các trường đại học chưa quyết liệt để đầu tư cho các NNC

Qua khảo sát về thực trạng phát triển, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho biết, bên cạnh những mặt đạt được của nhóm NNC trong thời gian qua thì vẫn còn một số tồn tại và hạn chế:

Thứ nhất, thiếu cán bộ khoa học đầu ngành dẫn dắt NNC. Kết quả khảo sát mới cho thấy trong số các cán bộ được hỏi mới có 75% các NNC là do các GS, PGS dẫn dắt. Bên cạnh đó, kết quả khảo sát đánh cho thấy 96% cho rằng vai trò dẫn dắt của người trưởng nhóm rất quan trọng, 97,6% cho rằng bên cạnh người trưởng nhóm, chất lượng các thành viên tham gia NNC cũng đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì và phát triển NNC.

Thứ hai, số lượng các công bố quốc tế của các NNC còn khá khiêm tốn. Trong đó có 37,5% số thầy cô được hỏi chưa có công bố quốc tế ISI/Scopus. Số các giảng viên có công bố quốc tế ISI/Scopus trên 5 bài chỉ có 34,2%. Con số này nói lên mức độ hội nhập với trình độ quốc tế của các nhà khoa học Việt Nam.

Thứ ba, nguồn lực đầu tư cho các NNC còn hạn chế, có đến 93,7% số người được hỏi cho rằng kinh phí để đầu tư cho NNC có vai trò hết sức quan trọng trong việc duy trì và phát triển NNC.

Ví dụ, Đại học Quốc gia Hà Nội sau 5 năm ban hành chính sách về NNCM từ 2013 đến nay, các đơn vị thành viên của Đại học Quốc gia Hà Nội như Trường Đại học Công nghệ mới hỗ trợ mỗi NNCM 50 triệu/năm; Trường Đại học Khoa học Tự nhiên hỗ trợ mỗi NNCM 30 triệu/năm, một số trường chưa có chính sách cụ thể...

Ngoài ra, cơ sở vật chất, trang thiết bị đầu tư cho nghiên cứu trong các trường đại học hiện nay còn rất thiếu hoặc không đồng bộ.

Thứ tư, về phía quản lý nhà nước và các trường đại học, còn thiếu các chính sách cụ thể và đủ mạnh để hỗ trợ và thúc đẩy sự hình thành và phát triển các NNC trong các trường đại học.

Nguyên nhân chính của những hạn chế tồn tại nêu trên trước hết xuất phát từ chủ quan các cán bộ giảng viên còn chưa ý thức được đầy đủ việc gắn kết công tác đào tạo với nghiên cứu, và chưa ý thức được tầm quan trọng của việc rèn luyện, nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn thông qua NNC.

Chính sách hỗ trợ, khuyến khích của các trường đại học cho các NNC chưa có, chưa cụ thể, hoặc còn chưa đáng kể, hay nói cách khác là chính các trường đại học cũng chưa có những giải pháp quyết liệt để đầu tư cho các NNC.

Có đến 16,7% các cán bộ giảng viên được hỏi trả lời chưa từng tham gia hội nghị quốc tế nào (được tổ chức ở trong cũng như ngoài nước).

“Chúng ta có thể nắm bắt được những cơ hội của của cách mạng công nghiệp lần thứ 4, không chỉ cần nguồn nhân lực chất lượng cao mà cần có nhân tài. Lợi thế cạnh tranh sẽ thuộc về những cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thu hút được nhân tài.

Chính vì vậy, các NNC cũng không là ngoại lệ và vấn đề thu hút nhân tài cũng là thách thức lớn đặt ra với các NNC trong các trường đại học ở Việt Nam hiện nay” – GS Đức nhấn mạnh.

Nhà nước cần có chính sách thúc đẩy các NNC

Nhóm nghiên cứu (NNC) được coi là tế bào của hoạt động nghiên cứu khoa học và đào tạo. Việc xây dựng và phát triển các nhóm nghiên cứu trong các trường đại học có ý nghĩa quan trọng, then chốt trong việc nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ và chất lượng đào tạo của nhà trường.

Qua khảo sát thực tiễn hoạt động của các nhóm nghiên cứu, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, kiến nghị cơ quan quản lý nhà nước và các trường đại học nhà nước cần sớm ban hành những chính sách cụ thể, đồng bộ và đủ mạnh để hỗ trợ và thúc đẩy sự hình hành phát triển các NNC trong các trường đại học hiện nay.

Các NNC cũng có quy mô, trình độ và thành tích đào tạo, nghiên cứu khác nhau, khả năng kết nối, hợp tác trong ngoài nước rất khác nhau, do vậy khi ban hành các tiêu chí và xem xét mức đầu tư cho NNC cũng cần quy định phù hợp với từng đối tượng, cấp độ để đảm bảo đầu tư không lãng phí, tránh cào bằng và đem lại hiệu quả cao nhất.

Hồng Hạnh
https://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/375-giang-vien-chua-co-cong-bo-quoc-te-isi-scopus-20190429101803332.htm

Thích

Báo xấu [0]

Gửi một bình luận lên tường nhà oanhoanh2211
Trả lời nhanh
Sun May 26, 2019 5:40 pm

oanhoanh2211
oanhoanh2211
oanhoanh2211

Member

Đại học Duy Tân: Gần 1.000 sinh viên công nghệ thông tin tìm được việc làm trong ngày

(QNO) - Ngày hội việc làm công nghệ thông tin (CNTT) lần thứ nhất năm 2019 của Đại học Duy Tân - Đà Nẵng tổ chức cuối tuần qua thu hút 21 đơn vị, doanh nghiệp ở lĩnh vực CNTT và phần mềm đang hoạt động ở Đà Nẵng, Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh tham gia tuyển dụng gần 1.000 vị trí việc làm cho sinh viên nhà trường.
37,5% giảng viên chưa có công bố quốc tế ISI/Scopus Images1528246_ngayhoivieclam
Sinh viên ngành CNTT Đại học Duy Tân đăng ký tìm vị trí việc làm. Ảnh: N.T.B
Phát biểu khai mạc, TS. Nguyễn Hữu Phú - Phó Hiệu trưởng Đại học Duy Tân, Trưởng ban Tổ chức Ngày hội việc làm CNTT nhận định: Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề nâng cao chất lượng đào tạo và giải quyết việc làm cho sinh viên luôn là lĩnh vực được quan tâm ở nhiều trường đại học. Những năm gần đây, nhu cầu tuyển dụng nhân lực cho ngành CNTT Việt Nam luôn là vấn đề nóng do ngày càng có nhiều tập đoàn, công ty công nghệ đa quốc gia đặt thêm chi nhánh tại Việt Nam. Năm 2019 có nhiều doanh nghiệp cần nguồn lực, nhân lực CNTT: 53,6% trong 69 công ty CNTT tại Việt Nam cần thêm 10 - 30% nhân sự; nhu cầu tuyển dụng thêm lên đến 30 - 50%, trong đó gần 9% doanh nghiệp muốn tuyển dụng hơn 50% lập trình viên…

Theo TS. Nguyễn Hữu Phú, hướng tới kỷ niệm 25 năm ngày thành lập Trường Đại học Duy Tân (11.11.1994 - 11.11.2019), nhằm tạo mối quan hệ bền vững giữa nhà trường - doanh nghiệp trong việc đào tạo, đào tạo đúng yêu cầu của thị trường lao động và tạo cơ hội việc làm cho sinh viên khối ngành Kỹ thuật - CNTT, Trường Đại học Duy Tân tổ chức Ngày hội việc làm CNTT lần thứ nhất năm 2019 này.

Báo cáo năm 2018 của Tổ chức Nghiên cứu khoa học và công nghiệp của Khối thịnh vượng chung về nền kinh tế kỹ thuật số tương lai của Việt Nam cho thấy, trong năm 2020 Việt Nam cần 1 triệu nhân lực CNTT, tập trung vào các lĩnh vực: trí tuệ nhân tạo, lưu trữ đám mây, thực tế ảo, thực tế tăng cường và công nghệ Blockchain, internet vạn vật, thương mại điện tử, quy trình kinh doanh và gia công phần mềm... Thu nhập bình quân toàn ngành CNTT năm 2018 của TP.Đà Nẵng là 14,8 triệu đồng/tháng/người; VNPT Đà Nẵng 21,6 triệu đồng/tháng/người, Viettel Đà Nẵng 25,7 triệu đồng/tháng/người.

TS. Lê Nguyên Bảo - Hiệu trưởng Đại học Duy Tân cho biết, ngay từ những ngày đầu thành lập, Đại học Duy Tân đã chủ trương xây dựng khối ngành Kỹ thuật - CNTT trở thành khối ngành đào tạo mũi nhọn của trường. Bên cạnh xây dựng đội ngũ giảng dạy, đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, nhà trường đã hợp tác với Đại học Carnegie Mellon - một trong 4 đại học hàng đầu về CNTT ở Mỹ để triển khai các chương trình chuẩn quốc tế về công nghệ phần mềm, hệ thống thông tin và an ninh mạng. Nhà trường cũng đã hợp tác với các doanh nghiệp, tập đoàn CNTT lớn trong và ngoài nước để tổ chức các khóa tập huấn, hội thảo, tư vấn về nghề nghiệp cho sinh viên khối ngành Kỹ thuật - CNTT. Rất nhiều sinh viên năm cuối của trường đang là thực tập sinh và đã được đảm bảo việc làm khi tốt nghiệp tại các công ty này.

Hiện có nhiều sinh viên theo học Chương trình tiên tiến và quốc tế Khoa Đào tạo quốc tế - Trường Đại học Duy Tân đã có những vị trí việc làm chủ chốt trong các doanh nghiệp, tập đoàn CNTT trong và ngoài nước. Tiêu biểu trong số đó có các sinh viên: Trà Anh Đông - K19 CMUTMT ngành An ninh mạng đang làm việc với vị trí Technical Support Speciallist, Tập đoàn HP, Malaysia; Ngô Viết Hoàng - K16 CMUTPM ngành Công nghệ phần mềm CMU, đang là Senior Software Architect, Công ty Flex, Mỹ; Phạm Thị Lệ Trình - K14 CMUTTT ngành Hệ thống thông tin quản lý làm Project Maneger Công ty Phần mềm Enclave; Nguyễn Tiến Thành - K16 CMUTTT ngành Hệ thống thông tin quản lý đang làm Marketing Manager Tập đoàn SunWorld;…

Bà Hana Fiedler - Giám đốc Marketing Công ty MGM Technology Partners Vietnam, đại diện các doanh nghiệp chia sẻ, đây là cơ hội tốt để các doanh nghiệp quảng bá thương hiệu và đồng thời tuyển dụng được nguồn nhân lực kỹ thuật - CNTT có chất lượng, đáp ứng được yêu cầu chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Ngày hội việc làm CNTT lần thứ nhất năm 2019 của Đại học Duy Tân có sự tham gia của 21 đơn vị, doanh nghiệp ở lĩnh vực CNTT và phần mềm... đang hoạt động trên địa bàn TP.Đà Nẵng và một số tỉnh ở khu vực miền Trung, TP.Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh. Qua ngày hội đã tuyển dụng được gần 1.000 vị trí việc làm mới.

Được biết, năm học 2018 - 2019, khối ngành Kỹ thuật - CNTT Trường Đại học Duy Tân (Khoa CNTT, Khoa Đào tạo quốc tế, Khoa Điện - điện tử) có hơn 1.000 tân cử nhân, kỹ sư tốt nghiệp và 95% có việc làm ngay thời điểm tốt nghiệp.

NGUYỄN THANH BÌNH
http://baoquangnam.vn/xa-hoi/lao-dong-viec-lam/201905/dai-hoc-duy-tan-gan-1000-sinh-vien-cong-nghe-thong-tin-tim-duoc-viec-lam-trong-ngay-853776/#.XNlBI2X5YxU.gmail

Thích

Báo xấu [0]

Gửi một bình luận lên tường nhà oanhoanh2211
Trả lời nhanh

Về Đầu TrangThông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

  © FMvi.vn

« Xem bài trước | Xem bài kế tiếp »

Bài viết liên quan

    Quyền hạn của bạn:

    Bạn không có quyền trả lời bài viết